Văn xuôi các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 nhìn từ diễn ngôn giới
Đăng ngày: 21/05/2016
1. Sự lên tiếng của nữ giới
Trong tiến trình văn học Việt Nam, ở những giai đoạn trước, sự có mặt của
nữ giới không chiếm ưu thế. Những năm 60 thế kỉ XX, một số cây bút nữ đã khẳng
định vị thế trên văn đàn nhưng chưa thành một lực lượng chủ yếu. Đặc biệt, ở bộ
phần văn học miền Nam, đội ngũ nhà văn nữ bắt đầu gây ấn tượng ở số lượng cũng
như chất lượng. Sau 1975, và nhất là sau 1986, bên cạnh những tác phẩm của nam
giới, vẫn tồn tại một mảng văn học nữ, mang đến một sức sống mới, với những cảm
xúc mới mẻ bằng sự mẫn cảm nữ giới. Sự lên tiếng của những người viết văn nữ là
làm nên một diện mạo khác, riêng so
với nam giới. Ngoài thế hệ các nhà văn trưởng thành từ giai đoạn chống Mỹ từng
bước thay đổi cách viết như Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Ngọc Tú,… một thế hệ mới
ra đời, đóng dấu ấn cá nhân bằng những tác phẩm được đông đảo bạn đọc đón nhận.
Cho đến nay, sau 40 năm thống nhất đất nước, sau 30 năm đổi mới, đã có thêm
ngày càng nhiều những nhà văn “tên tuổi”, như Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban,
Dạ Ngân, Phan Thị Vàng Anh,... góp phần khẳng định một thế hệ nhà văn cầm bút
và trưởng thành từ sau 1975. Không có nhiều tuyên ngôn, song bằng những trang
viết lặng thầm, bền bỉ, bằng số lượng tác phẩm được bạn đọc đón nhận và... thừa
nhận, các nhà văn nữ thế hệ trưởng thành sau 1975 đã góp phần không nhỏ trong
sự chuyển đổi văn học.
Sau 1975, số lượng các nhà văn nữ ngày càng nhiều. Tiếng nói nữ giới trong
văn chương có khi còn “trấn áp” cả tiếng nói của nam giới (tiếng nói của nhà
văn nam, của nhân vật nam). Ban đầu, cũng có không ít ý kiến cho rằng văn
chương phụ nữ, chuyện của phụ nữ,... chẳng bao giờ có tầm, một khi họ ít quan
tâm về... đại sự. Song, cuộc sống không chỉ được dệt nên bởi các đại tự sự; và
hơi thở của cuộc sống lại thường nằm ở những chi tiết, những câu chuyện nhỏ
nhất mà chỉ trái tim nhạy cảm của phụ nữ mới có thể phát hiện, trân quý và níu
giữ. Về sau, cùng với những thay đổi của xã hội trong quan niệm về chức năng,
nhiệm vụ của văn chương; cùng với những đòi hỏi khác của độc giả về văn học như
một loại hình giải trí, các câu chuyện của phụ nữ, gắn với phụ nữ,... ngày càng
được chú ý. Chuyện thường ngày, chuyện tình yêu, hôn nhân, chuyện tủn mủn, và
những vấn đề nhức nhối của xã hội,... đĩnh đạc bước vào các trang văn phụ nữ và
trở thành những câu chuyện không chỉ của phụ nữ. Tiếng nói của giới nữ trong
văn học khiến độc giả phải nghĩ khác về một bộ phận văn học nữ. Không còn đi
bên lề, văn xuôi nữ dần sóng đôi với văn xuôi của các nhà văn nam giới, cùng
làm nên một diện mạo nói chung của văn xuôi sau 1975. Và nếu xem sự vận động
của văn xuôi 30 năm đổi mới như một đồ thị hình sin, không phải không có những
thời kì, xếp quanh vị trí đỉnh, vị trí cực đại là các cây bút nữ... Có thể nói,
đã có một diễn ngôn của giới nữ trong văn xuôi thế hệ nhà văn sau 1975.
Đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, văn đàn Việt Nam xôn xao bởi sự xuất hiện
của nhiều cây bút nữ mới, đặc biệt ở lĩnh vực truyện ngắn. Phạm Thị Hoài gây ấn
tượng với tiểu thuyết Thiên sứ và tập
truyện ngắn Mê lộ. Y Ban khẳng định
ngay tên tuổi với truyện ngắn Bức thư gửi
mẹ Âu Cơ - giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội
(1989 - 1990), và tập truyện Người đàn bà
có ma lực - giải nhì cuộc thi viết về Hà Nội của NXB Hà Nội năm 1993). Sau
một vài truyện ngắn gây tiếng vang, Võ Thị Hảo trở thành một tên tuổi kể từ tập
truyện Biển cứu rỗi. Tiếp ngay đó,
Nguyễn Thị Thu Huệ với mỗi năm mỗi tập truyện Cát đợi, Hậu thiên đường,
Phù thủy, và gần đây là Thành phố đi vắng (giải thưởng Hội nhà
văn Việt Nam 2012), thể hiện sức bền và không ngừng đổi mới cách viết của nhà
văn... Với những tác phẩm xuất bản rải rác từ giữa những năm 80, Lý Lan, Dạ
Ngân, Bích Ngân,... đã bền bỉ xác lập chỗ đứng sau ba thập kỉ sáng tác không
ngừng nghỉ ở nhiều thể loại. Hơn kém nhau chừng nửa thập kỉ, xuất bản trước sau
cũng chừng nửa thập kỉ, Trần Thùy Mai, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thanh Hà, Phan Thị
Vàng Anh,... cùng tạo dấu ấn khi còn khá trẻ và cùng làm nóng văn đàn với rất
nhiều tập truyện ngắn ở thập niên 90 của thế kỉ XX.
Đáng mừng là trong 15 năm đầu thế kỉ
XXI, những cái tên từng lạ lẫm, mới mẻ ấy không chỉ trở nên rất quen thuộc mà
tiếp tục buộc độc giả phải nhắc tên. Một số tác giả đã thử nghiệm ở tiểu
thuyết, tản văn và có những thành công mới: Võ Thị Hảo, Y Ban, Lý Lan, Bích
Ngân, Dạ Ngân, Thùy Dương, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thanh Hà, Phan Thị Vàng Anh,....
Văn xuôi nữ đầu thế kỉ XXI còn được tiếp sức bởi một số nhà văn nữ thế hệ sau
1975 sống và viết ở hải ngoại như Thuận, Đoàn Minh Phượng,... với nhiều tác
phẩm lần đầu được xuất bản ở trong nước. Những tên tuổi, những phong cách nghệ
thuật đã hình thành một dòng văn nữ trong văn học Việt Nam 30 năm đổi mới. Và
để có được những thành tựu không nhỏ ấy, các nhà văn nữ đã luôn “rút ruột” sáng
tác cho chính mình, cho giới mình, với tâm niệm: “Luôn ước muốn sáng
tạo một nền văn học cho chính mình (a literature of your own). Cho
chính mình? Tức là cho thời đại mình”[i].
Bàn về các thế hệ những nhà văn nữ, nhà văn Văn Giá
cho rằng, nhìn vào những đóng góp của nhà văn nữ ở nước ta, thì thời nào cũng
có những đỉnh cao, cái tôi trong văn học nữ hôm nay là cái tôi đa diện, đa ngã[ii]. Trong xu thế hội
nhập văn học toàn cầu, thế hệ nhà văn nữ sau 1975 không tỏ ra thụ động. Một số tác giả nữ đã đạt giải
thưởng ở nước ngoài. Trong bộ sách Phái đẹp -
Cuộc đời & Cây bút, tập 1, ghi
lại 43 chân dung nhà văn nữ nhiều thế hệ (vẫn còn một số nhà văn chưa được điểm
diện) chỉ có Nguyễn Ngọc Tư (2008) được
trao Giải thưởng Văn học ASEAN (nhà văn nữ duy nhất trong số 17 nhà văn được
giải thưởng từ 1996-2013).
Các nhà văn nữ lên tiếng về điều gì? Nói như Y Ban: “Tôi
muốn xã hội hãy đọc tác phẩm của các nhà văn nữ như một sự lắng nghe, một sự
thấu hiểu. Vì đó chính là tiếng lòng của họ, là những khát khao tự giải phóng
bản thân mình”[iii].
Như vậy, văn chương nữ trước hết là tiếng lòng, là khát khao của phụ nữ, là bất
cứ chuyện gì liên quan đến họ, giúp họ trải nghiệm cuộc sống, khẳng định và
giải phóng bản ngã. Văn xuôi nữ kể những câu chuyện về tình yêu, hôn nhân, gia
đình,... không phải cái cách lấy những đề tài gần gũi nhất của phụ nữ để kể,
tả, bình luận từ “bên ngoài” như các nhà văn nam giới, mà kể về những cảm giác,
những run rẩy hạnh phúc, đớn đau,... chỉ của phụ nữ. Văn xuôi thế hệ các nhà
văn nữ sau 1975 vẫn quan tâm đến những chuyện lớn của đất nước, của xã hội,
song thường từ những góc khuất cuộc sống, những thân phận bé nhỏ. Đã có một
“chiến tranh mang khuôn mặt nữ giới” trong sáng tác của Dạ Ngân, Võ Thị Hảo,Võ
Thị Xuân Hà, Trần Thanh Hà,... Đã có những câu chuyện lịch sử được nhìn từ góc
nhìn giới, nhân vật lịch sử được chiêu tuyết hay kết tội đều từ điểm nhìn bên
trong (truyện ngắn lịch sử của Trần Thùy Mai, Trần Thị Trường, tiểu thuyết lịch
sử của Võ Thị Hảo…). Cũng đã có vô vàn tiếng nói phẫn nộ, bức xúc trước những
tiêu cực, tha hóa của xã hội thời hậu chiến trong các tác phẩm của Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, Bích Ngân,... Có những bức
tranh xã hội rộng lớn được các nữ nhà văn lựa chọn thể hiện bằng tiểu thuyết (như
của Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Thùy Dương, Thuận,...). Có nhiều chi tiết đời sống
lớn, nhỏ,... được tái hiện từ những ngẫm, nghĩ, cảm nhận của các nhà văn nữ qua
tản văn (như của Dạ Ngân, Bích Ngân, Thảo Hảo, Trần Thanh Hà,…). Nhìn chung,
văn xuôi nữ thế hệ nhà văn sau 1975 không chỉ bao quát nhiều đề tài mà còn trải
rộng ở nhiều thể loại. Ở đề tài nào, thể loại nào, các nhà văn nữ cũng tạo nên
những dấu ấn nhất định, không chỉ bởi tài năng, bởi những nhọc nhằn nghiêm túc
của nghiệp viết lách, mà còn bởi những đặc trưng giới tính đậm nhạt trong các
trang văn.
2. Từ ý thức giới đến tinh thần nữ
quyền
Ý thức giới (Gender awareness)
là khái niệm chỉ mức độ kiến thức và sự hiểu biết về khác biệt trong vai trò và
mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới. Ý thức giới được đề cập nhiều ở phương
diện xã hội học, xuất phát từ nỗ lực đem lại bình đẳng giới, bảo vệ giới nữ
trước những định kiến xã hội, những quan niệm truyền thống vốn coi thường phụ
nữ, mặc định phụ nữ phải yếu kém hơn nam giới. Dĩ nhiên, phụ nữ có giới tính
riêng – giới tính nữ, phân biệt với giới tính nam. Song khái niệm “nữ tính” vốn
do đàn ông gán cho phụ nữ để chỉ những đặc điểm về mặt xã hội (thay vì những
đặc điểm thuộc về bản tính, giới tính), từ đó quan niệm phụ nữ là yếu kém (yếu
đuối), phụ thuộc,... chỉ là kết quả của ý thức hệ nam quyền kéo dài qua nhiều
thế kỉ. Và với cách nhìn lấy nam giới là trung tâm, người nữ đã bị biến
thành... phụ nữ. Nói như Simone de Beauvoir trong câu
nói nổi tiếng toàn thế giới: “Người ta
không phải sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ”.
Đấu tranh cho giới luôn là hoạt động âm thầm của nhiều
thế hệ phụ nữ từ xưa đến nay. Song, phải đến thế kỉ XVII, đặc biệt là vào thế
kỉ XVIII, những tiếng nói của phụ nữ, vì phụ nữ, mới được vang lên một cách
mạnh mẽ, riết róng. Xuất bản quyển sách đầu tay với tựa đề Một đề nghị nghiêm túc cho quý bà (A Serious Proposal to the Ladies, 1694), và nhiều tác phẩm liên
quan đến phụ nữ sau đó, nhà văn người Anh Mary Astell được xem là một trong
những người phụ nữ đầu tiên đề cập đến các vấn đề nữ quyền. Tuy vậy, phải đến
thế kỉ XVIII, trên thế giới mới thực sự xuất hiện những nhà nữ quyền đúng
nghĩa. Với cuốn Sự bào chữa về quyền của
phụ nữ (Vindication of the Rights of
Woman, 1792) và nhiều tác phẩm khác, Mary Wollstonecraft, nhà triết học,
nhà văn người Anh, đã tiến hành một cuộc bút chiến “vì giới tính của tôi, không
phải vì bản thân” và được mệnh danh là là “nhà nữ quyền đầu tiên”, “người mẹ
của thuyết nữ quyền”. Cùng thời với Mary Wollstonecraft, tại Pháp, Olympe de
Gouges cũng đưa ra Bản tuyên ngôn về
những quyền của đàn bà và nữ công dân (Declaration
of the Rights of Woman and the Female Citizen, 1791) và đã đấu tranh vì phụ
nữ (và vì chế độ da đen) cho đến chết với lời tuyên bố dõng dạc: “Một phụ nữ có quyền bước lên đoạn đầu đài thì
họ cũng phải có quyền bước lên diễn đàn”. Được xem là nhà nữ quyền đầu tiên tại Mĩ, Judith Sargent Murray
cũng đã lên tiếng đòi bình đẳng giới giữa nam và nữ với tiểu luận Bàn về sự bình đẳng giới (On
the Equality of the Sexes, 1790), mở đường
cho suy nghĩ, những ý tưởng mới. Tư tưởng nữ quyền thế kỉ XIX được biết đến với
một số tên tuổi tiêu biểu như Bertha von Suttner (1843- 1914) - tiểu thuyết gia
người Áo, Emmeline Pankhurst (1858-1928) - nhà hoạt động chính trị người Anh,...
Sang thế kỷ XX, nhà văn người Anh Virgina Woolf với Căn phòng riêng (A Room of
One’s Own, 1929), Ba đồng ghinê (Three Guineas, 1938) và nhà triết học,
nhà văn Pháp Simone de Beauvoir với Giới
tính thứ hai (1949) đã khiến tư tưởng nữ quyền lan rộng ra toàn thế giới...
Hoạt động nữ quyền và đấu tranh vì bình đẳng giới liên tục diễn ra sôi nổi từ
ấy cho đến giờ. Ý thức về giới tính ở chính giới nữ cũng đã được nâng lên nhiều
so với các thế kỉ, các thập kỉ trước. Như vậy, chỉ có phụ nữ mới nói được tiếng
nói của giới họ. Điểm lại tiếng nói nữ quyền trên thế giới, càng thấy rõ rằng, các
nhà văn nữ tỏ ra có nhiều ưu thế hơn trong việc giúp phần còn lại của thế giới
và cả thế giới hiểu rõ phụ nữ, họ là ai,
thông qua các tác phẩm văn chương.
Ở Việt Nam, các nhà văn nữ, đặc biệt là thế hệ sau 1975,
cũng là những người đưa ý thức giới từ đời sống vào văn học, và ngược lại, bằng
văn học, nâng cao những nhận thức về giới. Các nhận thức về việc phụ nữ phải
được xem là một nửa dân số, phụ nữ được quyền tham gia và quyết định ở mọi
phương diện đời sống, phụ nữ phải được bảo vệ và bồi dưỡng, đào tạo, phụ nữ
phải được tự do trong khẳng định bản ngã, tự do trong tình dục,... đã được
nhiều nhà văn nữ công khai lên tiếng, giúp cho cả hai giới nam và nữ nhận biết
sự khác biệt giới tính cũng như những đòi hỏi bức thiếtvề bình đẳng giới. Không
đến mức phủ định hoàn toàn cách nhìn nhận của nam giới về phụ nữ như nhà văn,
nhà triết học mang tư tưởng nữ quyền người Pháp François Poulain de la Barre
(1647-1723) cho rằng: “Tất cả những gì được những người đàn ông viết về phụ nữ
đều phải được xem xét với sự nghi ngờ, bởi vì họ vừa là quan tòa vừa là bè
phái”[iv]; song các nhà văn
nữ thế hệ sau 1975 ở Việt Nam đã chứng minh rằng, nhờ có họ, xã hội Việt Nam đã
có những cách nhìn khác hơn về phụ nữ so với trước. Phụ nữ trong trang viết của
các nhà văn nữ, phụ nữ của đất nước Việt Nam thời hậu chiến, thời đổi mới, đã ý
thức hơn về bản thân, về giới tính của chính mình. Và từ những thức tỉnh giới
tính ấy, trong nhiều tác phẩm, tiếng nói nữ giới (tiếng nói của nhà văn nữ, của
nhân vật nữ, của tự thân những câu chuyện về phụ nữ...) đã trở thành những diễn
ngôn mang đậm tinh thần nữ quyền.
Thật ra, không hẳn sáng tác của bất kì nhà văn nữ nào
cũng mang tinh thần nữ quyền. Song, mang đặc trưng của giới, các nhà văn nữ khó
có thể chối bỏ những cảm nhận nữ tính trong tư tưởng, trong cách hành văn của
bản thân. Với những nhà văn nữ mang ý thức viết về (cho) mình/giới mình, lối
viết nữ giới và những câu chuyện liên quan đến các trải nghiệm giới tính lại
càng được bộc lộ rõ. Cũng chỉ những trải nghiệm giới tính (của chính bản thân,
hay của những hóa thân thành những số phận đồng giới) mới khiến văn xuôi nữ trở
thành những diễn ngôn của “giới tính thứ hai”.
Kể từ sau 1975, chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại
xuất hiện nhiều đến thế những tác phẩm văn học mang đậm ý thức giới tính. Nhiều
tác phẩm đã công khai “danh tính” của giới nữ ngay từ nhan đề: Hành trang
của người đàn bà Âu Lạc (Võ Thị Hảo), Người đàn bà ám khói (Nguyễn
Thị Thu Huệ), Người đàn bà bí ẩn (Phạm Thị Ngọc Liên), Người
đàn bà bơi trên sóng (Bích Ngân), Người đàn bà kể chuyện, Tiểu
thuyết đàn bà, Ba người đàn bà (Lý Lan), Đàn bà xấu thì không
có quà, I am đàn bà, Người đàn bà có ma lực (Y Ban), Trên mái nhà người phụ nữ, Gánh đàn bà (Dạ Ngân),… Nhiều tiêu đề
tác phẩm chứa đựng những kí hiệu “ám chỉ” về chuyện của giới nữ: Bức thư gửi
mẹ Âu Cơ, Xuân Từ Chiều (Y Ban); Nàng
tiên xanh xao, Hồn trinh nữ, Góa phụ đen (Võ Thị Hảo), Thiếu
phụ chưa chồng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Chuyện
của con gái người hát rong (Võ Thị Xuân Hà), Gái một con (Trần Thanh Hà), Thần
nữ đi chân không (Trần Thùy Mai),... Đa dạng về phong cách, thể loại, những
người đàn bà viết thế hệ sau 1975 đã đi từ những diễn ngôn cá nhân đến những
diễn ngôn của giới, biến những ý thức về giới trong xã hội thành những “tuyên
bố” của giới nữ thông qua những câu chuyện trải nghiệm giới tính trong văn
chương. Đó là thân phận phụ nữ với những bi kịch, những nỗi đau bởi chiến tranh
trong các tác phẩm Trong nước giá lạnh (Võ Thị Xuân Hà), Thế giới xô lệch (Bích Ngân), Tiểu
thuyết đàn bà (Lý Lan),... Đó là những mặc cảm sinh lí, mặc cảm giới tính
trước những định kiến “nam quyền” của xã hội trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Người đàn bà có ma lực (Y Ban), Hậu thiên đường, Thiếu phụ chưa chồng
(Nguyễn Thị Thu Huệ), Hồn trinh nữ, Người
sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), Thập
tự hoa, Trăng nơi đáy giếng (Trần Thùy Mai) hay Mưa ở kiếp sau (Đoàn Minh Phượng), Paris 11 tháng 8 (Thuận),...
Với lối viết “tự ăn mình”, nhân vật trong văn xuôi nữ
chính là sự hóa thân của chủ thể nữ giới. Ý thức giới thể hiện rõ ở phương thức
kể chuyện từ ngôi thứ nhất, nhân vật tôi/đàn bà/người kể chuyện kể chuyện mình,
chuyện giới mình, chuyện thế sự,… qua trường nhìn phụ nữ. Về phương diện này,
các nhà văn nữ thường chọn hình thức tự thuật. Điểm nhìn của chuyện/truyện hầu
hết đều là điểm nhìn bên trong. Nhân vật và người kể chuyện cũng thường đồng
nhất, xưng tôi để kể những chuyện chỉ riêng tôi mới biết (chuyện trinh tiết,
chuyện trở thành đàn bà, chuyện ngoại tình, chuyện chối bỏ bản năng làm mẹ,...).
Những bí ẩn giới tính trong nhiều trang văn nữ giới trở thành những sự chia sẻ,
trải lòng. Tôi chỉ sống để đi tìm những bí ẩn của các số phận đàn bà trong gia
đình tôi là câu chuyện của Tôi – Mai Chi trong Mưa ở kiếp sau (Đoàn Minh Phượng). Tôi, “cái giống lạc loài”, không
đủ dũng khí để bảo vệ hài nhi trong bụng – cũng là “cái giống lạc loài” của tình
yêu... lại là một câu chuyện giới tính khác được lồng ghép khéo léo qua hình
thức kể chuyện bằng thư độc đáo Bức thư
gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban). Tôi, người phụ nữ đã đi qua nhiều khúc đoạn của cuộc
đời, đã từng bay lên thiên đường và rơi xuống bởi gánh đàn bà trên vai,... cũng
là những chia sẻ đằm thắm trong một tản văn của Dạ Ngân (Gánh đàn bà),... Dưới hình thức tự sự như một lời độc thoại, song
lại luôn đặt vấn đề để đối thoại với chính mình, giới mình; đối thoại với nửa
còn lại của thế giới... truyện ngắn, tiểu thuyết tự thuật và tản văn nữ sau
1975 đã đem “chuyện” của giới nữ đến gần hơn với công chúng. Nhiều tác phẩm có
sự đánh tráo ngôi kể, người kể chuyện tôi/ đàn ông/ hoặc ẩn sau một gương mặt
phụ nữ khác (truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, tiểu thuyết Võ Thị Xuân Hà…); cũng
có nhiều tác phẩm được kể bởi lối trần thuật khách quan hóa từ ngôi thứ ba,
nhưng điểm nhìn hạn tri khác với truyền thống và diễn ngôn chủ đạo của tác phẩm
vẫn là diễn ngôn nữ giới, điểm nhìn kể chuyện vẫn là điểm nhìn bên trong của nữ
giới. I am đàn bà (Y Ban), Thiếu phụ chưa chồng (Nguyễn Thị Thu
Huệ), Gia đình bé mọn, Con chó và vụ li
hôn (Dạ Ngân), Tiểu thuyết đàn bà
(Lý Lan),... là những tác phẩm như thế. Truyện được kể từ điểm nhìn của người
kể chuyện hàm ẩn/ tác giả nữ. Điểm nhìn nữ giới này lại thường xuyên đồng nhất/
thống nhất với điểm nhìn của các nhân vật nữ (Thị trong I am đàn bà, My trong Thiếu
phụ chưa chồng, Tiệp, Đoan trong Gia
đình bé mọn, Con chó và vụ li hôn,
Thoa trong Tiểu thuyết đàn bà)... Với
đặc điểm đó, văn xuôi nữ thế hệ nhà văn sau 1975 hiếm khi khách quan, trung
tính. Giọng điệu trần thuật trong nhiều tác phẩm thường giàu cảm xúc. Đặc trưng
giới và ý thức về giới khiến các nữ văn sĩ thường để “lộ” tư tưởng, quan niệm,
tình cảm chủ quan nhiều hơn so với các nhà văn nam giới. Điều này một mặt giúp
các diễn ngôn nữ giới trong văn chương được bộc lộ rõ nét; song mặt khác lại
khiến họ đôi khi đã tự khuôn mình vào khu vực “văn học giới”, thay vì nhập vào
dòng văn học đương đại nói chung.
3. Nữ quyền luận và hiện sinh -
những tiếng nói khẳng định nhân vị giới
Simone de Beauvoir vừa là một nhà nữ quyền luận vừa là
nhà văn mang tư tưởng hiện sinh. Kết hợp, bổ sung hai triết thuyết lớn với
những nhận định nhân bản, de Beauvoir được xem là một trong những người sáng
lập ra thuyết Nữ quyền hiện sinh. Tiếp nhận những lí thuyết hiện đại, thế hệ
nhà văn nữ sau 1975 đã đem lại một tinh thần mới cho văn học đương đại – điều
cơ bản nhất là khẳng định nhân vị đàn bà. Ý thức nữ quyền là sự phát triển và
thể hiện cao nhất của ý thức về giới ở phụ nữ. Vượt lên trên sự tự ý thức về
giới tính, về những đặc trưng của giới nữ trong tương quan với giới nam, ý thức
nữ quyền là sự tự nhận thức về quyền và địa vị của phụ nữ. Từ những nhận thức
ấy, những nhà văn nữ đã bằng nhiều cách, phản đối những gì chống lại phụ nữ
trên mọi phương diện, trong đó có bất bình đẳng tính dục.
“Trong bản thể con người vốn có một thứ căn bản nguyên sơ
là dục vọng, và thứ dục vọng này đưa đến ham muốn tiếp xúc nhục thể, tạo thành
sự cộng hưởng sinh hoạt” (Michel Foucault)[v]. Nhà nữ quyền hiện sinh de Beauvoir nổi tiếng
với những nhận định về bình đẳng giới
trong tình dục: “Để trở thành một cá nhân hoàn toàn và bình đẳng với nam
giới thì người nữ phải được tiếp cận với thế giới nam giống như người nam tiếp
cận với thế giới nữ”[vi]. Khẳng định nhân vị đàn bà, đã có một hiện sinh tính dục
trong các trang văn phụ nữ. Cùng với những diễn ngôn tính dục được trao cho phụ
nữ, văn xuôi thế hệ các nhà văn nữ sau 1975 đã làm nên một âm hưởng nữ quyền
trong bức tranh chung của văn học đương đại Việt Nam. Trong hành trình xác lập
cái tôi nữ giới, người kể chuyện/ tác giả nữ không chỉ khẳng định bản ngã mà
còn tự giải phóng bản thân, bằng ý thức về vẻ đẹp nữ giới; ý thức về cái tôi cá
thể; về những đòi hỏi bản năng,...; những trải nghiệm tính dục cũng xuất hiện
với mật độ ngày càng nhiều (tác phẩm Y Ban, Dạ Ngân, Võ Thị Xuân Hà, Thuận...).
Những năm đầu sau 1986, bối cảnh xã hội những năm tháng
vừa mới ra khỏi chiến tranh, vừa làm quen với thời đổi mới khiến ý thức nữ
quyền trong nhiều tác phẩm dù đã lên tiếng, song vẫn chưa được đẩy lên đến mức
bạo liệt (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Người đàn
bà có ma lực, Con chó và vụ li hôn...). Nhà
không có đàn ông của Dạ Ngân là tác phẩm đề cập trực tiếp quyền của đàn bà
khá sớm. Từ cái nhìn “bên trong” của nhân vật, của giới, Dạ Ngân bình luận:
“Những người thân của chị đã thành công khi họ nhân danh đủ thứ, truyền thống
và tiêu chuẩn, tình thương và sự hy sinh nhưng không ai để lộ một lẽ nhân
danh khác, ấy là tính đàn bà. Họ đã
gắp gọn ra khỏi trái tim người phụ nữ trẻ ấy khát vọng tình yêu, cái mà con
người cần hơn mọi thứ, vì từ đó mà có tất cả”.
Đầu thế kỉ XXI, vượt lên định kiến, văn xuôi thế hệ các
nhà văn nữ sau 1975 không chỉ là diễn ngôn của giới mà trở thành những diễn
ngôn mang ý thức nữ quyền - hiện sinh. Theo Soeren Kierkegaard - ông tổ sáng
lập chủ nghĩa hiện sinh: “Hiện sinh, là bước ra khỏi phòng tối, là không chấp
thuận cái kín cổng cao tường, là chối từ cái im lìm, cái bất động của cái gì đã
đạt, đã xong, đã rồi, đã đủ… Không. Sống là còn đòi hỏi thêm… thêm… Thế còn
chưa đủ. Thế vẫn chưa vừa. Hôm nay phải khác hôm qua. Ngày sau không thể nào
lập y như bữa trước”[vii]. Không chấp thuận cái kín cổng cao tường...
nhiều nhà văn đã lên tiếng bênh vực cho giới nữ, kể cả “nổi loạn tính dục” để
khẳng định vị thế. Nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ “luôn muốn một cái gì như
gió bão chứ không đủ sức chịu đựng và chờ đợi sự thấm lâu của mưa ngâu” (Người xưa); “Tôi cóc cần sống vì ai. Tôi
phải vì tôi bởi cũng có ai nghĩ đến tôi đâu” (Thiếu phụ chưa chồng).
Tính dục là nhu cầu, là đời sống
của nữ giới, là tự do cá nhân. Khẳng định nhân vị trong đời sống tính dục trở
thành biểu hiện rõ nhất của ý thức nữ quyền hiện sinh, bên cạnh những giải
thiêng đạo đức, truyền thống,... từng xuất hiện trong văn xuôi nữ giai đoạn
trước. Với nhiều truyện ngắn (I am đàn
bà, Gà ấp bóng...) và nhất là với hàng loạt tiểu thuyết tấn công mạnh mẽ
vào ý thức hệ nam quyền (Xuân Từ Chiều,
Trò chơi hủy diệt cảm xúc,...), Y
Ban vẫn luôn là nhà văn sôi sục ý thức nữ quyền hơn cả. Tiêu đề truyện, phát
ngôn ngắn gọn của một nhân vật nữ trong truyện ngắn Y Ban “I am đàn bà”, chính
là lời xác tín nhân vị đàn bà dẫu từ góc khuất bản năng giới. Được viết bằng
ngôn ngữ thân thể, vấn đề tính dục trong tiểu thuyết nữ có khi còn mạnh mẽ, bạo
liệt hơn so với tiểu thuyết của nhà văn nam giới. Những năm 60 của thế kỉ XX,
trong một bộ phận văn học miền Nam, Nguyễn Thị Hoàng khá bạo liệt khi để nhân
vật nữ chiêm ngưỡng thân thể đàn ông và khơi lên những cồn cào, rạo rực bản
năng: “Trâm nhìn khoảng cườm chân trắng nõn của Minh hé lên giữa ống quần và
tất đen”; “chiếc áo len xanh ngắn rướn lên để hở một khoảng da bụng trắng muốt”
(Vòng tay học trò). Thuộc thế hệ
khác, trong bối cảnh xã hội khác, nhiều nhà văn nữ thế hệ sau 1975 đã thay đổi
những cái nhìn duy dương vật vốn lấy nam giới làm trung tâm. “Tôi nằm phơi dưới
cơn mưa, đồng loã với đất trời trêu ngươi bản lĩnh chuyên chính của Tăng...”;
“Tôi ngủ trên cỏ, trần truồng, thích thú ...”, “Cười nhạo sự thánh thiện. Mơn
trớn và giục giã…” (Trong nước giá lạnh -
Võ Thị Xuân Hà).
Với cảm thức hiện sinh, các nhà văn nữ đã ý thức khắc họa
một kiểu nhân vật nữ lạc lõng, xa lạ giữa một thế-giới-vắng, thế giới phi lí.
Trong các không gian rỗng, nhân vật nữ thường rơi vào tâm trạng cô đơn, chông
chênh trong trạng thái vừa muốn kết nối vừa tách rời cuộc sống. “Bước qua mỗi
ngày sống, người ta tiến gần đến với cái chết của mình hơn” (M. Heidegger). Lo
âu, thiếu vắng, cái chết trở thành phổ biến trong nhiều tác phẩm. Những cái
chết phi lí trong một thế giới vô cảm (Thành
phố đi vắng - Nguyễn Thị Thu Huệ). Những cái chết được lựa chọn sau những
phút giây truy tìm bản thể, trả lời/ không thể trả lời được câu hỏi về sự hiện
tồn “Tôi là ai?” (tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng). Những cái chết tất yếu sau nỗi
đau phải sống (tiểu thuyết Thuận),… Như vậy, ngoài ý thức về bản năng tính dục
từ góc nhìn giới, ý thức về bản năng chết “có chức năng đưa tất cả những gì ở
trạng thái sống động về trạng thái bất động”[viii] cũng xuất hiện
trong sáng tác của nhiều nhà văn nữ.
Kết
luận
Văn học sau đổi mới đã đi được một chặng đường 30 năm.
Các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 cũng đã có thâm niên sáng tác từ 20 đến 30 năm
và có thể còn dài hơn nữa (Nhiều tác giả vẫn đang ở giai đoạn sung sức, bút lực
dồi dào, hứa hẹn sẽ tiếp tục đem đến những tác phẩm mới có giá trị). 30 năm
trong tiến trình vận động của văn học chỉ là một giai đoạn ngắn, nhưng sự
nghiệp 20, 30 năm sáng tác với nhiều tác giả là một sự nghiệp đáng tự hào. Theo
quy luật sàng lọc khắc nghiệt của thời gian, một vài thập kỉ, một vài thế kỉ
nhiều khi cũng chỉ còn lại một vài tên tuổi. Song cũng theo quy luật về sự
“trỗi dậy”, “bừng nở” trong các giai đoạn văn học chuyển đổi, bước sang một
trang mới, có những giai đoạn văn học ngắn lại đem đến những bước tiến dài. 30
năm văn học đổi mới với sự đóng góp không thể phủ nhận của các nhà văn nữ thế
hệ sau 1975 là một giai đoạn như thế. Các nhà văn nữ đã cùng nhau làm nên một
dòng văn học nữ giàu bản sắc, tiếp tục cất lên tiếng nói của nữ nhân Việt Nam.
Tiếng nói nữ giới ấy không còn là những tiếng nói cá nhân, nhỏ lẻ như những
thời kì, những giai đoạn văn học trước. Tiếng nói phụ nữ trong văn xuôi 30 năm
đổi mới đã là tiếng nói chung của giới nữ. Nhờ sự tập hợp đông đảo ấy, các nhà
văn nữ thế hệ sau 1975 đã không chỉ khẳng định ý thức giới tính mà còn tạo nên
một diễn ngôn của giới mang đậm âm hưởng nữ quyền. Văn học nữ nhờ đó không còn
là một bộ phận, một khu vực văn học “ngoại biên” của nền văn học chính thống.
Văn học, văn xuôi nữ trở thành một bộ phận không thể chia cắt, tách rời của nền
văn học đương đại. Diện mạo của văn học Việt Nam đương đại cũng sẽ khuyết
thiếu, bất thành hình nếu không tính đến sự góp phần của văn xuôi nữ, đặc biệt
là văn xuôi của các nữ nhà văn thế hệ sau 1975.
--
Tác giả: TS. Thái Phan Vàng Anh
Nguồn: Tham luận Hội thảo
khoa học quốc gia "Thế hệ nhà văn sau 1975" do Trường ĐHVH Hà Nội tổ
chức (4/2016)
Admin
4
[i] Võ Thị Xuân Hà:Văn trẻ - bình tĩnh và vững tâm, (tham luận tại Tọa đàm giao lưu
nhà văn trẻ trong khuôn khổ Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam 2010).
Nguồn: http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-nam/doi-song-van-hoc/647-toa-dam-giao-luu-nha-van-tre-hoi-nghi-quoc-te-quang-ba-van-hoc-vn.html
[ii] Ý
kiến phát biểu tại Hội thảo về bộ sách “Phái đẹp – Cuộc đời & Cây bút”,
Nguồn: http://vanvn.net/news/1/5852-hoi-thao-ve-bo-sach-phai-dep-cuoc-doi-cay-but.html
[iii] Y Ban: 'Hãy lắng nghe tác phẩm của
nhà văn nữ', Nguồn:
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/y-ban-hay-lang-nghe-tac-pham-cua-nha-van-nu-2142011.html
[iv] Dẫn theo Nguyễn Tấn Hùng: “Tư tưởng
của Simone de Beauvoir về vấn đề nữ quyền trong tác phẩm Giới tính thứ hai”, Nguồn: http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tu-tuong-cua-simone-de-beauvoir-ve-van-de-nu-quyen.html
[v] Michel
Foucault: “Lịch sử
tính dục: Chương năm : Nữ giới” (Khổng Đức dịch).
Nguồn:
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=9299
[vi] Dẫn theo Nguyễn Tấn Hùng: “Tư tưởng
của Simone de Beauvoir về vấn đề nữ quyền trong tác phẩm Giới tính thứ hai”, Tlđd.
[vii] Dẫn theo Bùi Giáng: “Soeren
Kierkegaard và cơ sở chủ nghĩa hiện sinh”, Tư
tưởng hiện đại, NXB Văn hóa Sài Gòn, Tp.HCM., 2008.
[viii] Sigmund Freud: Cái tôi và cái nó (Trần Thị Mận dịch với sự giúp đỡ của Jean – Noel
Cristine), NXB Tri thức, H., 2015, tr.86.
- Thế hệ nhà văn sau 1975, họ là ai?29.04.2016
- Tìm hiểu lịch sử "Võ Cử" ở nước ta10.04.2016
- Nhà văn hóa tiên phong Nguyễn Văn Vĩnh27.03.2016
- "Mỗi hoài ngâm thảo" của Hà Đình Nguyễn Thuật trong dòng thơ sứ trình thời Nguyễn nửa sau thế kỷ XIX01.03.2016
- Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng23.02.2016
- Tiến hoá hay tạo hoá05.02.2016
- Chủ đề hôn nhân trong truyện cổ tích dưới mắt các nhà folklore Việt Nam27.01.2016
- Một Việt Nam khác? Vương quốc họ Nguyễn ở thế kỉ 17 và 1810.01.2016
- Tư tưởng chính trị nhị nguyên của Lê Quý Đôn27.12.2015
- Quan hệ thương mại của Đại Việt và Java thế kỷ XI-XIV01.12.2015
- Về những lỗi in sai trong văn bản thơ, ca dao dưới góc nhìn ngôn ngữ học23.09.2019
- Những giá trị nghệ thuật kiến trúc Đền Trạng (Hương Khê, Hà Tĩnh)15.07.2019
- Đạm Phương với vấn đề nữ học: Giáo dục phụ nữ và trẻ em trong gia đình04.12.2018
- Đối thoại với di sản Khảo cổ học: Nghiên cứu phức hệ di tích Vườn Chuối19.11.2018
- Lý thuyết trong Nhân học: Trung tâm và ngoại vi14.05.2018
- Truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại05.05.2018
- Nhận thức và sự lựa chọn Nhật Bản của Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du đầu thế kỷ XX12.03.2018
- Tết Nguyên Đán của người Việt Nam15.02.2018
- Giáo sư Susan Bayly thuyết trình về “Nhân học và nhân học văn hóa trong nghiên cứu và giảng dạy hiện nay”06.01.2018
- Địa lý học lịch sử Việt Nam: Trăm năm một thoáng nhìn23.12.2017